Chồng chị Tý Nị là anh Makun (người Nhật Bản). Cơ duyên của cặp vợ Việt, chồng Nhật gặp gỡ cũng vô cùng thú vị. Chị Tý Nị kể, chồng tuy là người Nhật nhưng anh sống ở Mỹ đã 25 năm. Hồi đó, cô gái Việt sang Nhật du học 1 năm, đúng lúc anh Makun về nhà chơi nên
Con dâu quá nứng lồn mà mò đến cùng với cha chồng làm tình địt nhau vào mỗi đêm nứng lồn. Cha chồng và con dâu đã làm ra những cuộc vui loạn luân vô cùng dâm dục kích thích thèm khát ham muốn cho nhau. Cặc của cha chồng cả đêm không ngừng đâm thật sâu vào bên trong lồn của con dâu mà nhấp thật điên cuồng sung sướng và kích thích.
phim sex viet nam, hai vo chong lam tinh nhu dien vien sex nhat. 15min. phim sex viet nam choi em tu linh 9x vu to. 1min 25sec . Làm tình. 8min. phim sex viet nam doi sinh vien chich nhau trong nha tro. 4min . Vợ yêu. 6min. phim sex viet nam, hai vo chong lam tinh nhu dien vien sex nhat. 5min . Video007. 32min. Vợ chồng địt nhau
Từ khóa liên quan: cave viet nam, vo chong moi cuoi, viet nam moi nhat, quay len viet nam, vo chong lam tinh, viet nam moi nhat 2018, hoc sinh viet nam, vừa địt vừa noi chuyện, vợ chồng việt nam, phim sex viet nam, may bay ba gia, việt nam mới nhất, vợ chồng khẩu dam, vo chong viet nam moi nhat, việt nam, phim
phim sex viet nam, hai vo chong lam tinh nhu dien vien sex nhat. 6min . cô giáo mầm non cục xinh làm tình. 15min. 2 vo chong lam tinh truoc mat con. 20min . mbbg live chát sex cực dâm. 3min. Vietnam. 40sec . công viêc làm thêm cuae em tiếp viên hãng jetsta. 8min.
vo chong; mom; viet nam; milf [01:40] Ditza Chong . ciudad del carmen; masturbate; pack vo chong Tran minh hieu 1998do thi thu huyen 1994 . Vietnamese; Minh; 1998; Wife [00:27] Sướng chồng_ơi . bo chong; lam tinh; gai xinh [04:53] Vợ chồng đụphóng tinh vàolồn sướng quá (343) hoa;
OvBax. I. Tìm hiểu Tác giả Kim Tác phẩm Vợ Tóm tắt nội dung truyện ngắn Vợ Phân tích tác Tình huống truyện Vợ Nhân vật Tràng.– Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát– Niềm hạnh phúc của Tràng khi có vợ – Tâm tặng của Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau 3. Thị – người vợ “nhặt”.4. Nhân vật bà cụ Giá trị hiện thực và giá trị nhân Giá trị hiện Giá trị nhân Ý nghĩa văn bản. VỢ NHẶT Trích – Kim Lân – I. Tìm hiểu chung. 1. Tác giả Kim Lân. – Kim Lân 1920 – 2007 thành công về đề tài nông thôn và người nông dân; có một số tác phẩm có giá trị về đề tài này. – Kim Lân viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ – những người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của ông vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. 2. Tác phẩm Vợ nhặt. – Xuất xứ Vợ nhặt in trong tập Con chó xấu xí, 1962 được viết dựa trên một phần cốt truyện cũ của tiểu thuyết Xóm ngụ cư. – Bố cục 4 phần. + Phần 1 từ đầu … “tự đắc với mình” Tràng đưa được người vợ nhặt về nhà + Phần 2 tiếp … “đẩy xe bò” chuyện hai vợ chồng gặp nhau, thành vợ thành chồng + Phần 3 tiếp … “nước mắt chảy ròng ròng” tình thương của người mẹ nghèo khó + Phần 4 còn lại niềm tin vào tương lai. – Nội dung Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ ngay trên bờ vực của chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau 3. Tóm tắt nội dung truyện ngắn Vợ nhặt. Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình. II. Phân tích tác phẩm. 1. Tình huống truyện Vợ nhặt. – Tình huống éo le Nhờ nạn đói mà Tràng có được vợ. Chỉ có bốn bát bánh đúc mà người đàn bà theo không một người đàn ông xa lạ. Hạnh phúc diễn ra trong bối cảnh của nạn đói → Nạn đói khủng khiếp, thân phận con người tầm thường. Tình huống tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người. – Tình huống lạ, độc đáo người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo. Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ. Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó. – Ý nghĩa tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. 2. Nhân vật Tràng. – Tràng là người đàn ông thô kệch + Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch Đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu. Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… + Tính khí Tràng lại thất thường Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Hắn có cái tật vừa đi vừa tủm tỉm cười. Nhiều lúc, hắn cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch. – Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát + Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu. + Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. → Hoàn cảnh xuất thân khó lấy được vợ. + Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ. Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thật chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng” Lần gặp thứ nhất, trên đường kéo xe thóc lên tỉnh Tràng hò chơi cho đỡ mệt “Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế. Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ” – Niềm hạnh phúc của Tràng khi có vợ + Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người Tràng đã có vợ. + Tràng khi đưa vợ về đến nhà Hành động xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái. → Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần, Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây. – Tâm tặng của Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau + Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”. + Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị. + Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. + Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa. + Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây. + Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự đầm ấm, hoà hợp. – Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta. → Tràng là một người lao động nghèo, tốt bụng và cởi mở giữa lúc đói anh sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ, luôn khát khao hạnh phúc và có ý thức xây dựng hạnh phúc. 3. Thị – người vợ “nhặt”. – Thị là nạn nhân của nạn đói Ngoại hình tiều tụy, xác xơ vì đói “hôm nay thị rách quá…con mắt”. – Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối sầm vì đói khát. Cùng cảnh ngộ giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… một con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. – Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của chị + Lần gặp thứ nhất có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy” + Lần gặp thứ 2 chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy… Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh… cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc… ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở “Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống. – Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng để theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt. – Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động. Sâu thẳm trong thị vẫn khao khát một mái ấm gia đình và niềm tin ở tương lai + Thị bước sau Tràng chừng 3 – 4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận + Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng. + Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương. – Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người. – Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân + Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nạn đói do chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được. + Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt. 4. Nhân vật bà cụ Tứ. – Nhà văn Kim Lân tâm sự “Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau. – Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế. – Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. – Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn. Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. – Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót. – Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng. – Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sáng phía trước + Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá. + Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán cháo cám. – Ăn cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con – những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại. + Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “Chớ than phận khó ai ơi. Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”. – Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi. – Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ – người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ. → Bà cụ tứ là một người mẹ nghèo khổ, rất mực thương con, một người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha, một con người lạc quan, có niềm tin vào tương lai, hạnh phúc tươi sáng. Bà đã thắp sáng niềm tin vào tương lai cho con và dâu của mình. Nhận xét Ba nhân vật có niềm khát khao sống và hạnh phúc, niềm tin, hy vọng vào tương lai tươi sáng ở cả những thời khắc khó khăn nhất, ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Qua các nhân vật, nhà văn muốn thể hiện tư tưởng “dù kề bên cái đói, cái chết, người ta vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hy vọng ở tương lai”. III. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. 1. Giá trị hiện thực. – Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 + Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi. + Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma. + Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào. + Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết. + Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối. + Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát. + Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt. + Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. – Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945. – Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm hiện thực mang tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng. 2. Giá trị nhân đạo. + Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ. + Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp. + Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo. + Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng IV. Tổng kết 1. Nội dung Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. 2. Nghệ thuật – Xây dựng tình huống truyện độc đáo. – Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật. – Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng. – Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế. – Ngôn ngữ Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ. 3. Ý nghĩa văn bản. Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 và khẳng định ngay trên bờ vực của cái chết, con người vẫn hướng về sự sống, tin tưởng ở tương lai, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân Phân tích hình ảnh nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân Phân tích hình tượng người vợ “nhặt” trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân Qua các nhân vật trong “Vợ nhặt”, hãy chứng minh “Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống” Nghị luận “Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người”
Hướng dẫn soạn bài Vợ Nhặt của Kim Lân giúp các em học sinh thấy được niềm khao khát hạnh phúc ngay cả bên bờ vực thẳm của cái chết cũng như niềm tin hướng tới tương lai của người nông dân nghèo trong nạn đói băm 1945 và luyện tập câu 1 và câu 2 trong SGK Ngữ Văn 12. Chúc các em có bước soạn bài thật tốt để thuận tiện hơn trong quá trình tiếp thu bài giảng tại lớp hiệu quả nhất. 2. Tóm tắt nội dung bài học Nội dung Phản ánh tình trạng thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 do thức dân Pháp và phát xít Nhật gây ra. Cận kề bên cái chết nhưng người nông dân vẫn khao khát sống hạnh phúc. Đối mặt với tình cảnh khốn cùng, người nông dân vẫn có niềm tin mãnh liệt, bất diệt vào cuộc sống, vẫn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Nghệ thuật Sáng tạo tình huống truyện độc đáo. Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật hết sức tinh tế. Ngôn ngữ đối thoại góp phần thể hiện tính cách, tâm lí nhân vật. 3. Soạn bài Vợ nhặt chương trình chuẩn Soạn bài chi tiết Câu 1 Dựa vào mạch truyện, có thể chia tác phẩm thành mấy đoạn? Nêu ý chính của mỗi đoạn và cho biết mạch truyện được dẫn dắt như thế nào? a. Bố cục của tác phẩm chia làm 4 phần Đoạn 1 Từ đầu đến "tự đắc với mình" → Tràng đưa người vợ nhặt về nhà. Đoạn 2 Tiếp đó cho đến "rồi cùng đẩy xe bò về" → Kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng. Đoạn 3 Tiếp đó cho đến "nước mắt chảy ròng ròng" → Tình thương của người mẹ già nghèo khó đối với đôi vợ chồng mới. Đoạn 4 Còn lại → Lòng tin về sự đổi đời trong tương lai. b. Cách dẫn dắt mạch truyện Mạch truyện được tác giả được tác giả dẫn dắt một cách tự nhiên như nó vốn diễn ra trong cuộc sống của những ngày đói năm 1945 ở một xóm ngụ cư, tạo ra sức lôi cuốn và hấp dẫn đối với người đọc. Câu chuyện chỉ xảy ra từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau trong gia đình bà cụ Tứ gồm người mẹ, anh con trai và người con dâu mới vợ nhặt. Câu 2 Vì sao người dân xóm ngụ cư lại ngạc nhiên khi thấy Tràng đi cùng một người đàn bà lạ về nhà? Sự ngạc nhiên của các nhân vật trong truyện cho thấy nhà văn đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo như thế nào? Giữa nạn đói khủng khiếp đang diễn ra, Tràng bỗng dưng nhặt được vợ một cách dễ dàng nhờ mấy bát bánh đúc. Điều này lạ vì Người như Tràng vừa nghèo vừa xấu lại là dân ngụ cư mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo. Thời buổi này Tràng thân mình còn lo không nổi lại còn dám lấy vợ. Nhưng khốn nỗi, nếu không phải năm đói, người ta không đói quá thì ai thèm lấy Tràng. Bởi đây là “vợ nhặt”, có cần cheo cưới gì đâu. Năm đói thế nào cũng xong, có thế người như Tràng mới lấy được vợ. Việc một người không thể lấy vợ được mà lại có vợ một cách thật dễ dàng như Tràng đã làm cho người dân xóm ngụ cư ngạc nhiên, bàn ra tán vào. Bà cụ Tứ - mẹ Tràng ngạc nhiên và đến ngay chính bản thân tràng cũng không thể tin được vì mọi chuyện xảy ra quá nhanh. Sự ngạc nhiên của các nhân vật trong truyện cho thấy nhà văn đã xây dựng thành công tình huống truyện “nhặt vợ” độc đáo, có một không hai. Lấy vợ là một trong những việc trọng đại nhất đời người, cần có những nghi lễ trang trọng… thì ở đây Tràng lại nhặt được vợ ngoài chợ như một mớ rau ⇒ tình huống lạ, gây bất ngờ, ngạc nhiên cho người đọc, vừa nghịch lí nhưng lại vừa có lí. Như vậy có thể nói chính tình huống “nhặt vợ” đã giúp nhà văn triển khai câu chuyện một cách tự nhiên. Với tình huống này, Kim Lân đã nói lên một cách sâu sắc nỗi niềm khao khát tổ ấm gia đình và tình yêu thương giữa những con người nghèo khổ ngay trên bờ vực thẳm của cái chết. Đây là nội dung nhân đạo chủ nghĩa cảm động nhất của tác phẩm. Câu 3 Dựa vào nội dung truyện, hãy giải thích nhan đề vợ nhặt. Qua hiện tượng nhặt được vợ của Tràng, anh chị hiểu gì thêm về tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nhan đề “vợ nhặt” Nhan đề đã thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm. Lấy vợ là một trong những việc trọng đại nhất đời người, cần có những nghi lễ trang trọng… thì ở đây Tràng lại nhặt được vợ ngoài chợ như một mớ rau. Nhặt vợ được một cách dễ dàng, ngẫu nhiên. Qua hiện tượng nhặt được vợ của Tràng, chúng ta thấy rằng Thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể "nhặt" ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh. Nhan đề vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945, vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng hướng tới cuộc sống tốt hơn và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng. Câu 4 Niềm khao khát tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng. Kim Lân rất hiểu người nông dân. Ông đã có những phát hiện rất tinh tế và sâu sắc về niềm khát khao tổ ấm gia đình qua nhân vật Tràng trong tác phẩm. Lúc quyết định lấy người đàn bà làm vợ mặc dầu “chợn” nhưng Tràng vẫn tặc lưỡi” “Chậc, kệ!”. Đó chính là niềm khát khao tổ ấm gia đình như một tiềm thức, một tình cảm đã có từ lâu trong lòng người người nông dân nghèo khổ này, giờ đây bật lên thành tiếng nói, thành hành động. Khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư tâm trạng Tràng tỏ ra thích chí và tự đắc “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, “cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình” ⇒ Kim Lân đã diễn tả thật tinh tế cái vẻ hãnh diện hồn nhiên của một con người lần đầu tiên dẫn vợ mình đi qua xóm làng. Trong buổi sáng đầu tiên có gia đình, Tràng bỗng nhận ra có sự thay đổi mới mẻ, khác lạ Từ nhà cửa, sân vườn,…cho đến mẹ và vợ đều khác lạ. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu và gắn bó với cái nhà hắn lạ lùng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn cảm thấy nên người, hắn thấy hắn phải có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. ⇒ Khao khát tổ ấm gia đình của Tràng đã được Kim Lân diễn tả thật thấm thía và lay động, người đọc thấy rõ hạnh phúc gia đình đã lay động mạnh mẽ và làm biến chuyển, thay đổi tình cảm của nhân vật, nâng con người của Tràng lên cao hơn, đẹp hơn. Trong bờ vực thẳm của cái chết người dân lao động vẫn luôn nghĩ tới cuộc sống và không ngừng tìm kiếm hạnh phúc ⇒ giá trị nhân văn cao cả. Câu 5 Phân tích tâm trạng buồn vui xen lẫn của bà cụ Tứ. Khi thấy người đàn bà lạ ngồi ở đầu giường con trai hai lần chào mình bằng u bà thấy mắt nhoèn đi, bà im lặng vì quá ngạc nhiên, hoàn toàn không hiểu đầu đuôi câu chuyện. Khi hiểu câu chuyện, bà hiểu ra bao nhiêu cơ sự. Nghĩ về con trai – thương con phải lấy vợ nhặt, nhờ cơn đói khát mới lấy được vợ. Về bản thân – thấy tủi vì chưa làm tròn bổn phận của người mẹ lấy vợ cho con. Về người chồng đã khuất – thương và tủi cho vong linh chồng không biết mặt con dâu, không được chứng kiến ngày con trai lấy vợ, và về người đàn bà lạ bỗng trở thành con dâu – thương người đàn bà khốn khổ, cùng đường mới lấy đến con trai bà mà không tính đến cưới hỏi. ⇒ Ngổn ngang bao tâm trạng buồn vui, mừng tủi, và nhất là lo lắng vì nạn đói, lo vợ chồng chúng nó có sống qua nổi cái thời tao loạn này không – tất cả hoà trong dòng nước mắt nghẹn ngào Đối xử với nàng dâu mới Tỏ thái độ gần gũi, thương yêu, chăm sóc nàng dâu. Lời nói chân tình, dịu dàng, tính toán cùng vợ chồng con chuyện nuôi gà, chuyện ngăn liếp, chuyện tương lai với niềm lạc quan dân dã “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời; Sông có khúc, người có lúc” để động viên các con. Buổi sáng hôm sau bà bảo ban các con, đem niềm vui cho các con, cố động viên các con bằng món chè kho. ⇒ Là người mẹ nghèo thương con sâu sắc, là “những con người đằng sau manh áo rách là những tấm lòng vàng" – một điển hình bà mẹ nông dân nhân hậu mà nhà văn đã đem đến cho người đọc trong thiên truyện ngắn này. Câu 6 Nghệ thuật viết truyện ngắn của Kim Lân. Tác phẩm dựng lên một tình huống truyện lạ, độc đáo, đầy ý nghĩa. Vẽ người, diễn tả tâm lí qua cử chỉ, ngôn ngữ của nhân vật. Nghệ thuật trần thuật linh hoạt và sử dụng ngôn ngữ có tính tạo hình đặc sắc Trên đây là những gợi ý trả lời hệ thống câu hỏi trong SGK để giúp các em soạn bài Vợ nhặt của Kim Lân được thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, để củng cố kiến thức đã học và làm bài được tốt hơn, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Vợ nhặt. 4. Hướng dẫn luyện tập Câu 1 Tùy theo cảm nhận riêng mà mỗi người có những ấn tượng khác nhau. Dưới đây là gợi ý cách phân tích chi tiết nồi cháo cám. Gợi ý làm bài a. Mở bài Giới thiệu về tác giả. Giới thiệu tác phẩm và chi tiết nghệ thuật đầy ý nghĩa – chi tiết nồi cháo cám. b. Thân bài Vị trí của chi tiết trong truyện ngắn nằm trong phần 2 của truyện ngắn, cụ thể đó là món ăn duy nhất của cả nhà trong buổi sáng ngày hôm sau. Ý nghĩa Chi tiết trên thể hiện tình trạng cùng cực của người dân lao động trong nạn đói 1945. Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ Bà cụ Tứ người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực Tràng “Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ ⇒ hiểu rõ được hoàn cảnh của gia đình mình. Vợ Tràng hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng ⇒ chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. Trong hoàn cảnh của nạn đói năm 1945, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”, nồi cháo cám trong buổi sớm đầu tiên đón cô dâu mới thật sự nồi cháo của tình thân, tình người , niềm tin và hy vọng. Chi tiết thể hiện tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn. c. Kết bài Đánh giá, nhận xét một cách khái quát về chi tiết nồi cháo cám. Câu 2 Phân tích ý nghĩa đoạn kết của tác phẩm Gợi ý làm bài a. Mở bài Giới thiệu về tác giả, tác phẩm. Khái quát về ý nghĩa đoạn kết của tác phẩm. b. Thân bài Ý nghĩa nội dung Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng Gieo một hi vọng mãnh liệt và tâm hồn Tràng và gia đình anh. Gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt rằng những con người khốn khổ sẽ có lá cờ đỏ kia dẫn đường. Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng. Ý nghĩa nghệ thuật Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện. Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán đoán. c. Kết bài Đánh giá về cách kết thúc truyện cũng như sự độc đáo, tài hoa của Kim Lân. 5. Một số bài văn mẫu về văn bản Vợ nhặt Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại 1954, nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn "Vợ Nhặt" ra đời. Để dễ dàng lập được dàn ý và viết bài văn hoàn chỉnh về tác phẩm Vợ nhặt, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây
vo chong viet lam tinh