Ngài tự mô tả là cánh cửa của Nước Chúa. Vì Đức Chúa Con được tạo nên bằng Đức Thánh Linh, Ngài là cánh cửa để chúng ta vào Nước Chúa. Bụt cũng được mô tả như là một cánh cửa, là vị đạo sư chỉ đường cho ta sống trong đời. Phật tử tu học con đường đó Thủ Đô thủ đô hà nội Ngàn Năm Văn Hiến Hà Nội Là hà nội thủ đô 1000 năm tuổi có lịch sử dân tộc lâu đời, truyền thống lịch sử văn hóa đa dạng mẫu mã và giàu phiên bản sắc, tp. Hà nội thực sự là một trong những trung tâm du ngoạn lớn của Việt Nam. Thiền ѕư Thíᴄh Nhất Hạnh là một trong những đại thiền ѕư nổi tiếng nhất thế giới, táᴄ giả ᴄủa hàng trăm ᴄuốn ѕáᴄh, trong đó, rất nhiều ᴄuốn đượᴄ хếp hạng beѕt-ѕellerѕ như An lạᴄ từng bướᴄ ᴄhân, Phép lạ ᴄủa ѕự tỉnh thứᴄ, Chúa ngàn đời Truyện Bỉ Ngạn - Một Đời Chân Ái thuộc thể loại: Truyện Ngôn Tình, Huyền Huyễn full đầy đủ, cập nhật, truyện được viết bởi tác giả Hạnh Trang. 5SQT. Bạn đọc đang có trên tay một cuốn sách rất thú vị Người Thầy của tỉnh thức & thương là tập hợp một số bài báo trong hàng vạn bài viết về Thiền sư Thích Nhất Hạnh của các cây bút nổi tiếng trên thế giới. Có thể xem cuốn sách này như một tập chân dung về Thiền sư Thích Nhất Hạnh được “ký họa” ở nhiều góc độ khác nhau, dưới con mắt quan sát, qua “cái thấy” của người nước ngoài. Vì thế, đây là cuốn sách quý, rất đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước, từ lâu, Thiền sư Thích Nhất Hạnh được xem là một trong số ít những vị lãnh tụ tinh thần nổi tiếng nhất thế giới. Người Phương Tây thường gọi ông một cách giản dị và kính trọng là “Thầy”, với hàm nghĩa Thiền sư là người thầy tâm linh, trong khi người Việt Nam lại trìu mến, thân thương gọi ông là “Sư Ông Làng Mai”. Rất nhiều Phật tử coi ông như một vị Bụt sống. Ông là tác giả của hàng trăm cuốn sách, trong đó có rất nhiều cuốn được xếp hạng best sellers như An lạc từng bước chân, Phép lạ của sự tỉnh thức, Bụt ngàn đời Chúa ngàn đời,… đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Ông còn có hàng ngàn buổi thuyết pháp bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp, được lưu truyền trên khắp hành tinh. Từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, ông đã là ứng cử viên của giải Nobel Hòa bình. Và thực sự, ông là một sứ giả của hòa ta đang sống trong một thế giới đầy bất an. Chiến tranh, khủng bố, bạo lực. Sự suy thoái kinh tế, suy thoái đạo đức diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Cái đẹp mong manh luôn bị dồn đuổi, trong khi cái ác lại lộng hành lên ngôi. Cuộc sống của chúng ta nhiều lúc ngột ngạt và nóng đến mức, có cảm giác chỉ sơ ý đánh rơi một tàn lửa là cả hành tinh đã bùng cháy thành một Hỏa Diệm Sơn khủng có cách nào cứu được không?Có đấy. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhà văn nổi tiếng thế giới M. Dostoevky đã phát hiện ra một phương thuốc hữu hiệu “Chỉ có tình yêu mới cứu được thế giới”. Tình yêu ở đây không chỉ là tình yêu lứa đôi mà rộng hơn, cao hơn, đó là tình yêu thương của con người với con người. Chỉ tình yêu thương ấy mới cứu rỗi được thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng quan niệm như vậy. Ông cho rằng, chỉ có tình thương yêu mới xóa bỏ được mọi hận thù. Không thể có hạnh phúc từ những cuộc tranh giành. Sự thành công của mình không thể lại được xây đắp bằng máu, nước mắt và sự thất bại của kẻ khác. Làm thế nào để tôi thành công và anh cũng thành công thì hạnh phúc của ta mới lớn hơn, trọn vẹn hơn. Hạnh phúc không bao giờ bắt nguồn từ quyền lực, danh vọng và tiền bạc. Hạnh phúc đích thực chỉ có khi chúng ta có tình yêu thương và sự hiểu biết. Nếu tất cả mấy tỷ người trên thế giới này hàng ngày nói với nhau bằng ngôn từ hòa ái, nếu tất cả các vị lãnh đạo trên thế giới này ứng xử bằng cái tâm chứa đầy Hiểu và Thương thì tất cả chúng ta sẽ trở thành những vị Bồ tát và hành tinh của chúng ta sẽ tràn ngập hạnh phúc, tình yêu thương. Đó đích thị là Niết bàn, là Thiên đường. Ở đó, sẽ không có chiến tranh, không có bạo lực, không có những kiếp người bị đọa mấy chục năm qua, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cần mẫn gieo hạt mầm yêu thương như thế trên khắp thế giới. Trọn một đời tu hành, ông luôn hướng chúng ta đến cõi thiện, giúp chúng ta có được sự an lạc, thảnh thơi giữa đời sống bộn bề lo toan, hờn trách. Ông chỉ bày cho chúng ta cách có thể đứng vững trước bao nhiêu bon chen, đố kỵ, những mưu ma, chước quỷ của con người. Vì thế, mỗi bước chân của ông là bước chân của an lạc, thương yêu. Mỗi hơi thở của ông là hơi thở của từ bi, bác thể nói, một trong những công lao lớn nhất của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là đã hiện đại hóa đạo Phật, đưa đạo Phật vào cuộc đời và một trong những nét đặc sắc nhất trong sự nghiệp hoằng dương Phật pháp của ông là đã dạy cho người đời cuộc sống có tỉnh thức bằng hơi thở, bước chân có chánh niệm. Nhờ thế, ông đã cứu rỗi được biết bao tâm hồn đau khổ, đã gột rửa những bụi bặm, bùn nhơ cho biết bao phận người, giúp họ tự giải thoát, và hơn thế, trở thành những vị Bồ tát giữa đời thường. Có lẽ cũng cần nhắc lại câu chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh với một người lính Mỹ. Anh ta đã từng tham chiến ở Việt Nam. Trong một trận càn, anh đã vô tình giết năm đứa trẻ. Những đứa trẻ hoàn toàn vô tội. Anh ân hận, dằn vặt và đau khổ. Nhiều người lính khác cũng thế. Trở về Mỹ, họ mắc một căn bệnh – bệnh hội chứng chiến tranh Việt Nam. Có người bị tâm thần, không còn sống được bình thường, cũng không có bệnh viện nào chữa khỏi. Họ tìm đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh, học một khóa tu của ông. Thiền sư chia sẻ “Thưa ông, sự thật là ông đã sát hại năm đứa trẻ vô tội trong cuộc chiến Việt Nam. Nhưng có những việc ông có thể làm để chuộc lại lỗi lầm ấy. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều đứa trẻ đang chết vì thiếu thức ăn, thiếu dinh dưỡng và thuốc men. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, mỗi ngày có khoảng bốn chục ngàn trẻ em trên thế giới chết vì đói và thiếu dinh dưỡng. Sao hôm nay ông không ra tay cứu giúp những đứa trẻ đang chết đói như thế, thay vì ngồi đó mà giam hãm mình trong cái ngục tù ký ức của khổ đau, tội lỗi về hành động sát hại năm đứa trẻ. Ông hãy thực tập làm mới trở lại, đem cuộc đời của mình để làm những điều ngược lại với những hành động thiếu hiểu biết, thiếu tình thương mà ông đã gây ra trong quá khứ. Ông hãy cố gắng hết khả năng của mình để tìm cách bảo vệ sự sống, cứu giúp những mạng sống của các em bé nghèo ở các nước chậm tiến. Hãy đi vào cuộc đời để cứu giúp những em bé bất hạnh. Vô số các em bé đang cần sự giúp đỡ, đang cần cánh tay từ bi của ông. Ông không nên ngồi đó mà tự giam hãm mình trong cái xiềng xích của tội lỗi, tuyệt vọng trong khi ông có thể sửa đổi được quá khứ.”.Người lính ấy bỗng như được giải thoát. Anh đã khỏi hẳn bệnh, đã khỏe mạnh trở về với đời sống thường ngày. Rồi anh đi làm việc thiện. Không chỉ cứu được năm đứa trẻ thoát khỏi cái chết mà anh cứu được hàng trăm đứa trẻ bất hạnh ở Việt Nam và ở khắp nơi trên thế giới. Và thế là, từ một kẻ tội đồ, anh đã trở thành một vị Bồ tát nhờ biết tu tập và biết thương sư Thích Nhất Hạnh là thế. Ông là một vị Bụt sống. Ông xuất hiện ở đâu là nơi đó thành ngôi chùa linh thiêng. Ngôi chùa ấy có tên là TÌNH YÊU THƯƠNG. Và ở đó chỉ có tình yêu thương ngự trị. Người Việt Nam chúng ta tự hào vì có ông. Ông là một trong những người Việt Nam đẹp nhất. Cả một đời tu tập chỉ để đem hạnh phúc, thương yêu đến cho mọi có nhiều cuốn sách viết về Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Song cuốn sách này sẽ mang đến cho chúng ta nhiều điều thú vị bởi chúng ta được chiêm ngưỡng ông qua con mắt thông thái của các nhà báo nước ngoài. Trước khi viết về ông, họ đã tham gia những khóa tu. Vì thế, họ ngắm ông không phải bằng con mắt của kẻ vãng lai mà là cái nhìn và sự thấu hiểu của người trong cuộc. Điều đặc biệt là qua những bài viết ấy, chúng ta phát hiện ra, người phương Tây tìm đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh không chỉ để giãi bày, chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, tìm lại niềm vui sống giữa đời mà họ còn tìm cầu tuệ giác của ông trong việc làm thế nào để điều hành doanh nghiệp tốt hơn, giảm bớt stress, căng thẳng, phát huy nhiều hơn nữa sự sáng tạo, trên cơ sở đó để tăng lợi nhuận. Họ là những CEO của các tập đoàn kinh tế khổng lồ như Google, Yahoo, Ngân hàng Thế giới World Bank. Họ còn là những thượng nghị sĩ Mỹ, những ngôi sao Hollywood nổi tiếng, những chính khách lừng danh… Qua những cuộc gặp gỡ, trao đổi ấy, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chỉ bày cho họ hướng đi tâm linh trong đời sống, trong sự nghiệp cùng những phương pháp thực hành rất cụ thể. Nhờ thế, họ có thể xử lý những khổ đau do công việc và đời sống hàng ngày tạo ra. Nhờ thế, họ đã nhận ra được tầm quan trọng của việc đưa những giá trị tâm linh vào trong đời sống thường đến đây, tôi tự hỏi Vì sao người phương Tây lại theo học Thiền sư Thích Nhất Hạnh đông như vậy? Theo tôi, sở dĩ người Tây phương theo ông học hỏi, thực tập nhiều vì ông không hiến tặng cho họ đạo Phật của đức tin, của cầu nguyện, của dâng sao giải hạn theo lối mê tín mà hiến tặng cho họ đạo Phật của sự thực tập kinh nghiệm. Bởi Đức Phật không phải là một đấng tạo hóa hay một vị thần linh mà đích thực là một con người, một người đã đắc đạo, có tuệ giác cao siêu nhờ tu tập. Đạo Phật là một phương pháp sống nương vào tự lực hơn là nương vào một quyền lực linh thiêng nhuốm màu mê tín ở bên ngoài, không giáo điều, không mặc khải, không xung đột báng bổ với bất cứ một truyền thống tâm linh nào và trong bản chất đích thực của nó cũng không xung đột với khoa học hiện đại. Tu tập theo ông, người ta sẽ thấy trí tuệ và lòng từ bi tăng trưởng, nhờ thế mà thân tâm họ điều đặc biệt nữa là qua cuốn sách này, chúng ta thấy, Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những người quan tâm nhất đến vấn đề môi trường, môi sinh và biến đổi khí hậu của trái đất. Từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước, Thiền sư đã chỉ ra rằng Toàn thể nhân loại và muôn loài vật, cỏ cây… có một ngôi nhà chung là quả địa cầu. Vì vậy, các quốc gia đừng vì cái lợi trước mắt, cái lợi của riêng mình mà phá hủy môi sinh của núi rừng, biển cả, lớn hơn là của bà mẹ trái đất. Ông đã gióng tiếng chuông báo động về sự sụp đổ của nền văn minh nhân loại trong vòng một trăm năm tới do hậu quả của biến đổi khí hậu. Bằng tuệ giác siêu việt của mình, ông đã lý giải Sở dĩ phần lớn chúng ta không hành động gì để đối phó lại trước nguy cơ trái đất bị hâm nóng, cho dù đã có vô số các chứng cứ khoa học, là vì chúng ta không có khả năng tự cứu mình khỏi những khổ đau của tự thân thì làm sao có thể lo lắng cho vận mệnh của đất Mẹ. Nếu nhận thấy tính tương tức của vạn vật trong vũ trụ, chúng ta sẽ vượt thoát ý niệm cho rằng, chúng ta là những thực thể tách biệt. Khi đó, tình thương, lòng từ bi trong ta sẽ trở nên rộng lớn và chính năng lượng đó thôi thúc ta hành động để bảo hộ đất lại trang sách cuối cùng, điều đọng lại trong tôi là hình ảnh của Thiền sư Thích Nhất Hạnh hiện lên lồng lộng với một tâm hồn lớn, trí tuệ lớn, tình thương lớn. Tình thương ấy đủ rộng để ôm trùm tất cả muôn loài, muôn vật trong vũ trụ. Vì thế, với tôi, đây là một cuốn sách rất có giá trị. Và tôi tin, cuốn sách sẽ mang đến cho quý vị nhiều thông tin bổ ích và lý Nội, ngày 15 tháng 9 năm 2019Nhà thơ Trần Đăng Khoa Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhà sư Phật giáo Việt Nam, nhà hoạt động vì hòa bình và người sáng lập Trung tâm Làng Mai ở Pháp. Thầy Nhất Hạnh bắt đầu hành trình trở thành tu sĩ tại Việt Nam vào năm 16 suốt cuộc đời của mình, Thiền sư Nhất Hạnh nay đã 92 tuổi xuất bản hơn 100 cuốn sách bằng tiếng Anh và từng được bổ nhiệm làm giảng viên Phật giáo tại Đại học Columbia. Ngày nay, Thầy dành khoảng thời gian còn lại để sống trọn vẹn ở chùa Từ Hiếu, Việt cả điều này là để nói rằng mặc dù Thầy Nhất Hạnh khá thành công, nhưng một điều không bao giờ bị dao động là thông điệp về chánh niệm và hòa bình của Thiền sư. Điều đó được thể hiện rõ ràng trong các cuốn sách của Thầy và những lời dạy vô cùng ý nghĩa mà bạn sắp di chuyển của thiền“Đi bộ như thể bạn đang hôn Trái đất bằng đôi chân của mình”, Thầy viết trong cuốn sách An Lạc Từng Bước bỏ“Buông bỏ cho chúng ta tự do, và tự do là điều kiện duy nhất để có được hạnh phúc. Nếu trong thâm tâm, chúng ta vẫn bám víu vào bất cứ điều gì liên quan đến sự tức giận, lo lắng hay sở hữu, thì chúng ta không thể tự do”, Thầy Thích Nhất Hạnh viết trong cuốn sách Trái Tim Của Bụt.“Cảm giác đến và đi như những đám mây trên bầu trời lộng gió. Hơi thở có ý thức là mỏ neo của tôi”, Thầy viết trong cuốn sách Bước Tới Thảnh Thơi.“Hạt giống đau khổ trong bạn có thể mạnh mẽ, nhưng đừng đợi đến khi bạn không còn đau khổ nữa mới cho phép mình được hạnh phúc”, Thầy Nhất Hạnh viết trong Trái Tim Của Bụt Biến đau khổ thành Hòa bình, Niềm vui và Giải phúc đích thực Nhiều người nghĩ rằng sự phấn khích là hạnh phúc… Nhưng khi bạn phấn khích, bạn không được bình an. Hạnh phúc thật sự dựa trên bình an”, Thầy viết trong cuốn sách Quyền Lực Đích tỉnh thức trong hiện tại“Thở vào, tôi bình an cả cơ thể và tâm trí. Thở ra, tôi mỉm cười. Ở trong thời điểm hiện tại tôi biết đây là khoảnh khắc duy nhất”, Thầy Nhất Hạnh viết trong cuốn sách Muốn An Được cuốn sách Thuần Hóa Hổ Bên Trong Thiền về chuyển đổi những cảm xúc khó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết, “Cuộc sống chỉ có sẵn trong thời điểm hiện tại.”“Khoảnh khắc hiện tại tràn ngập niềm vui và hạnh phúc. Nếu bạn thật sự quan sát, bạn sẽ thấy nó”, Thầy viết trong cuốn sách An Lạc Từng Bước Chân.“Cách tốt nhất để chăm sóc tương lai là chăm sóc khoảnh khắc hiện tại”, Thầy viết trong Bụt ngàn đời, Chúa ngàn đời“Tôi tự hứa với bản thân rằng tôi sẽ tận hưởng từng phút giây trong ngày tôi được sống”, Thiền sư Nhất Hạnh viết trong cuốn Giận Trí tuệ để làm mát ngọn lửa.“Nếu chúng ta không sống trọn vẹn trong thời điểm hiện tại, chúng ta sẽ bỏ lỡ tất cả mọi thứ”, Thầy Nhất Hạnh viết trong cuốn An Lạc Từng Bước Chân.“Chỉ khoảnh khắc hiện tại chứa đựng sự sống”, Thầy viết trong An Lạc Từng Bước Chân.“Chánh niệm giúp bạn trở về nhà trong hiện tại. Và mỗi khi bạn đến đó và nhận ra điều kiện hạnh phúc mà bạn có, hạnh phúc sẽ đến”, Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết trong cuốn sách Giận Trí tuệ để làm mát ngọn lửa.“Cuộc sống chỉ có sẵn ở hiện tại. Đó là lý do tại sao chúng ta nên đi bộ theo cách mà mỗi bước có thể đưa chúng ta đến đây và bây giờ”, Thầy Nhất Hạnh viết trong Tình Yêu Đích Thực.“Chạm vào khoảnh khắc hiện tại, chúng ta nhận ra rằng hiện tại được tạo ra từ quá khứ và đang tạo ra tương lai”, Thiền sư Nhất Hạnh viết trong cuốn Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn yêu thương“Nếu bạn yêu ai đó nhưng hiếm khi sẵn sàng cho người đó, đó không phải là tình yêu đích thực”, Thầy Thích Nhất Hạnh viết trong cuốn sách Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời.“Trong tình yêu đích thực, bạn đạt được tự do”, Thầy viết trong cuốn Tình Yêu Đích Thực Một thực hành để đánh thức trái tim.“Nếu tình yêu của chúng ta chỉ là một ý chí chiếm hữu, thì đó không phải là tình yêu”, Thầy viết trong cuốn An Lạc Từng Bước Chân.“Khi bạn yêu một ai đó, bạn phải dành cho người đó những gì tốt nhất bạn có. Điều tốt nhất chúng ta có thể cung cấp cho người khác là sự hiện diện thực sự của chúng ta”, Thầy viết trong cuốn Không Bùn, Không Hoa Sen Nghệ thuật biến đổi đau khổ.“Trong tình yêu đích thực, không có niềm kiêu hãnh”, Thầy viết trong Giận Trí tuệ để làm mát ngọn lửa.“Tình yêu không có ý nghĩa nếu không có sự thấu hiểu”, Thầy viết trong cuốn Nghệ Thuật Sống Chánh Niệm.“Yêu mà không biết cách yêu sẽ làm tổn thương người mình yêu”, Thầy viết trong cuốn Cách Để cuốn sách Đường Xưa Mây Trắng, Thiền sư Nhất Hạnh đã viết “Được yêu có nghĩa là được công nhận tồn tại”.Niềm hy vọng“Hy vọng là điều quan trọng, bởi vì nó có thể làm cho khoảnh khắc hiện tại ít khó chịu. Nếu chúng ta hy vọng rằng ngày mai sẽ tốt hơn, chúng ta có thể chịu đựng được khó khăn của hôm nay”, Thầy viết trong cuốn An Lạc Từng Bước Chân Con đường chánh niệm trong cuộc sống hàng ngày.“Bởi vì bạn còn sống, mọi thứ đều có thể,” Thầy Nhất Hạnh viết trong cuốn sách Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời.“Nhờ vô thường, mọi thứ đều có thể,” Thầy Nhất Hạnh viết trong cuốn sách Trở về nhà, Chúa và Phật là hai anh hành độngTrong cuốn sách Hiểu Tâm Trí Của Chúng Ta 50 câu thơ về Tâm lý học Phật giáo, Thầy Nhất Hạnh đã viết, “Hành động của tôi là thứ duy nhất thuộc về tôi.”“Hành động của người khác là kết quả của nỗi đau của chính họ, chứ không phải là kết quả của bất kỳ ý định làm tổn thương bạn”, Thầy viết trong cuốn Cách Để Yêu.“Mọi suy nghĩ bạn tạo ra, bất cứ điều gì bạn nói, bất kỳ hành động nào bạn làm đều mang chữ ký của bạn”, Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết trong cuốn sách An Lạc Từng Bước Chân Con đường chánh niệm trong cuộc sống hàng ngày .Về tính khách quan“Để mọi thứ bộc lộ bản chất với chúng ta, chúng ta cần sẵn sàng từ bỏ quan điểm của chúng ta về chúng”, Thầy viết trong cuốn Muốn An Được mục đích“Cuộc sống của chúng ta phải là thông điệp của chúng ta”, Thầy viết trong cuốn sách Hướng đi của đạo Bụt cho hòa bình và môi gìn sức khỏe“Giữ cho cơ thể bạn khỏe mạnh là một biểu hiện của lòng biết ơn đối với toàn bộ vũ trụ, cây cối, những đám mây, tất cả mọi thứ”, Thầy Nhất Hạnh viết trong Chạm Đến Hòa Bình Thực hành nghệ thuật sống chánh cho người khác đau khổ“Nếu bạn đau khổ và khiến những người thân yêu của bạn đau khổ, không gì có thể biện minh cho mong muốn của bạn”, Thầy viết trong cuốn Quyền Lực Đích sự bình an“Tôi tin chắc rằng không có cách nào để bình an. Bình an là cách”, Thầy Nhất Hạnh viết trong Quyền Lực Đích Thực.“Nếu chúng ta bình an, nếu chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể mỉm cười và nở hoa như một bông hoa, và mọi người trong gia đình, toàn xã hội sẽ được hưởng lợi từ sự bình an của chúng ta”, Thầy viết trong Muốn An Được nhìn sâu sắc“Khi bạn bắt đầu thấy kẻ thù của mình đang đau khổ, đó là khởi đầu của sự sáng suốt”, Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết trong cuốn An Lạc Từng Bước Chân Con đường chánh niệm trong cuộc sống hàng ngày.“Nghĩ về sự bi quan hoặc lạc quan sẽ thể hiện sự thật. Vấn đề là phải nhìn thấy thực tế như vậy”, Thầy viết trong cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức.“Tự do không được trao cho chúng ta bởi bất kỳ ai; chúng ta phải tự trau dồi nó. Đó là một thực hành hàng ngày … Không ai có thể ngăn bạn nhận thức được từng bước chân bạn thực hiện hoặc từng hơi thở vào ra”, Thầy Nhất Hạnh viết trong cuốn An Lạc Từng Bước Chân.“Chúng ta phải tiếp tục học hỏi. Chúng ta phải cởi mở. Và chúng ta phải sẵn sàng giải phóng kiến ​​thức của mình để hiểu rõ hơn về thực tế”, Thầy viết trong Bạn Đang Ở Đây Khám phá sự kỳ diệu của khoảnh khắc hiện tại.“Hiểu có nghĩa là vứt bỏ kiến ​​thức của bạn,” Thầy viết trong Muốn An Được hòa bình của riêng bạnTrong cuốn sách Dạy về tình yêu, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết “Mỗi khoảnh khắc là một cơ hội để chúng ta làm hòa với thế giới, mang hòa bình cho thế giới, mang hạnh phúc cho thế giới.”Lòng từ bi“Những người không có lòng từ bi không thể nhìn thấy những gì được nhìn thấy bằng con mắt của lòng từ bi”, Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết trong cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Chúa“Người ta nói rằng Thiên Chúa đã tạo ra con người theo hình hài của Ngài. Nhưng có thể chính loài người đã tạo ra Thiên Chúa theo hình hài của loài người”, Thầy Nhất Hạnh viết trong Trở Về Nhà Chúa và Phật là anh khổ“Thực tế là khi bạn khiến người khác đau khổ, họ sẽ cố gắng tìm sự giải thoát bằng cách khiến bạn đau khổ hơn. Kết quả là sự leo thang đau khổ từ cả hai phía”, Thầy viết trong cuốn sách Tức Giận Trí tuệ để làm mát ngọn vật chấtTrong cuốn sách Tạo Ra Hòa Bình Đích Thực Chấm dứt bạo lực trong chính bạn, gia đình bạn, cộng đồng của bạn và thế giới, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết, “Hạnh phúc không đến từ sự tiêu thụ mọi thứ.”Nhìn vào bản thân“Những gì bạn đang tìm kiếm đã có sẵn trong bạn. Bạn đã là tất cả những gì bạn đang tìm kiếm”, Thầy Nhất Hạnh viết trong Đang Ở Đây Khám phá sự kỳ diệu của khoảnh khắc hiện ý nghĩa của tình bạn đích thựcTrong cuốn sách Cách Để Yêu, Thầy Thích Nhất Hạnh đã viết “Một người bạn thật sự là người khuyến khích chúng ta nhìn sâu vào bản thân mình vì vẻ đẹp và tình yêu mà chúng ta đang tìm kiếm.”“Mỗi người là một thế giới để khám phá”, Thầy viết trong cuốn Cách Để Yêu.“Nguồn gốc của một mối quan hệ lâu dài là chánh niệm, lắng nghe sâu sắc và lời nói yêu thương, một cộng đồng mạnh mẽ sẽ hỗ trợ bạn,” Thầy Nhất Hạnh viết trong cuốn sách Cách Để Sen Phật K Hãy chiếu [Am]sáng tâm hồn [G]con ngọn lửa [Am]hồng từ ngàn đời là [F]tình [G]yêu [C]Chúa vượt qua đêm [E]tối [E7].Và chiếu [Am]sáng trên trần [G]gian ngọn lửa [Am]hồng tự ngàn đời để tình yêu [C]Chúa cháy [Em7]lên đốt lòng mọi [Am] Xin cho [G]con một [C]tình [Dm]yêu [E]Chúa [Am] như ánh sao [G]đêm soi [G7]dẫn nẻo [C]về [E7].Vượt tăm [Am]tối qua [E]miền [F]ánh [G]sáng [Am] dẫn đưa [Dm6]con thoát [E7]khỏi bến [Am] Xin cho [G]con một [C]đời [Dm]như [E]Chúa [Am] biết hy [G]sinh quên [G7]chính phận [C]mình [E7].Ngày xưa [Am]Chúa giáng [E]trần [F]cứu [G]thế [Am] thắp yêu [Dm6]thương sáng [E7]hồn thế [Am] Xin cho [G] con niềm [C]tin [Dm]sắt [E]đá [Am] lúc an [G]vui hay [G7]lúc khổ [C]sầu [E7].Dù nguy [Am]khó trăm [E]chiều [F]nguy [G]khó [Am] Chúa thương [Dm6]con trong [E7]mọi phút [Am]giây. 1. Nhà Is-ra-el, hãy xướng lên ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Nào A-ha-ron, hãy xướng lên ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Người tôn sợ Chúa hãy nói lên ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. ĐK Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. 2. Ngài vẫn chở che phù giúp tôi dù đời giăng mắc đầy hiểm nguy. Ngài trở nên Đấng giải thoát tôi vì Ngài là dũng lực đời tôi. Mừng vui chiến thắng lời hát vang kìa này tay Chúa kỳ diệu thay! 3. Là đá thợ nề loại bỏ ra đá trở nên đá nền tường xây. Việc do tay Chúa làm lớn lao thật là cao quý kỳ diệu thay! Và đây ngày Chúa đã tác nên nào người ca hát và mừng vui. ⬤ Tung hô Tin Mừng Alleluia, Alleluia. Tô-ma vì con thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những người đã không thấy mà tin. Alleluia, Alleluia. ***** Thánh Vịnh 117 Chúa Nhật 2 Phục Sinh C [ThaiHaBooks] Ngay những trang đầu, nội dung của cuốn sách đã được trình bày một cách súc tích, đầy đủ qua một hình ảnh rất đẹp Hình ảnh của người anh lớn đến kịp lúc để giúp người em giải quyết một vấn đề nan giải trên máy vi tính. Người anh nói “Em ngồi qua một bên, anh làm cho.” Người em tức thì cảm thấy vững lòng dù chưa biết vấn đề có được giải quyết ổn thỏa hay không. Người anh lớn đó chính là Đức Bụt trong lòng mỗi chúng ta, là sự hiểu biết sáng suốt của chúng ta. Thầy Thích Nhất Hạnh cũng chính là người anh lớn đó, lúc nào cũng gần gũi, thân thiết và kiên nhẫn. Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy “Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thương và tuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.”“Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức” là một cuốn sách nhỏ, đầy chất thi ca, đầy hình ảnh của Phật giáo cổ truyền được diễn bày bằng ngôn ngữ tâm linh của người Tây phương, điều đó để giúp ta hiểu rằng tất cả mọi vấn đề của thế gian đều mang một ý nghĩa chung Đó là ý nghĩa tương tức mà Bụt đã dạy, không có gì mà không liên hệ mật thiết với nhau, không có gì là tách biệt nhau. Cho nên đọc cuốn sách này, ta phải đọc cho tất cả mọi người, để tất cả cùng nhau đóng góp xây dựng hạnh phúc cho mỗi người anh em của mình trên Trái đất này.“Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức” Buddha Body, Buddha Mind do nhà Parallax ấn hành. Đó là nhà xuất bản mà Thầy Thích Nhất Hạnh và Arnold Kotler lập ra từ năm 1987, bây giờ đã trở thành một cơ quan xuất bản không vụ lợi của Cộng đồng sinh hoạt chánh niệm có nhiệm vụ quảng bá sách của Thầy và các tác giả khác viết về chủ đề Đạo Phật đi vào cuộc đời. Quyển sách này là một tác phẩm về Phật giáo Tâm lý học mới thuộc loại xuất sắc nhất. Và chúng ta không ngạc nhiên khi sách bắt đầu bằng pháp môn thực tập thiền đi. “Thực tập thiền đi chậm một mình, quý vị hãy thử phương pháp này thở vào và bước một bước, chú tâm hoàn toàn vào gan bàn chân. Nếu quý vị chưa về,’ chưa tới’ được một trăm phần trăm thì đừng bước thêm bước nào nữa cả. Cứ đợi cho quý vị về tới giây phút hiện tại được một trăm phần trăm rồi thì mới bước đi bước kế tiếp. Quý vị có thể xài lớn’ thì giờ như vậy. Và khi quý vị thấy mình đã về đã tới được một trăm phần trăm rồi thì hãy mỉm cười và bước thêm một bước đi như vậy, quý vị in xuống đất sự vững chãi và thảnh thơi của quý vị.” Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức là một cuốn sách tiếp nối công trình, phát huy giáo lý Duy Biểu của Thầy Nhất Hạnh, lấy cảm hứng từ kinh Lăng Già và các bộ luận của tổ Thế Thân, sống vào thế kỷ V. Cuốn sách trước đó cùng một chủ đề của Thầy là Để hiểu tâm ta Understanding Our Mind, giảng dạy năm mươi bài tụng Duy Biểu của trường phái Vijnanavada. Trong khi Để hiểu tâm ta là một cuốn sách thuộc loại chuyên môn, đọc khá khó hiểu thì Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức lại là một quyển sách đọc rất dễ hiểu vì Thầy Nhất Hạnh đã có tài năng khéo léo diễn tả được những giáo lý khó khăn thâm diệu trong đạo Phật thành ra dễ hiểu với ngôn ngữ thông dụng của thời đại chúng sách bắt đầu bằng cách dạy thiền đi, không phải là không có chủ ý. Chánh niệm từ trước đến nay đã là trung tâm của những gì Thầy giảng dạy cũng như giữa thân và tâm không có gì ngăn cách. Khi ta thực tập thiền đi, thiền ngồi, thiền lạy, khi ta tiếp xử với nhau, ta sử dụng cả thân và tâm cùng một lúc. Khi nói tới tương tức, đồng thời Thầy cũng đề cập tới sự nhất trí diệu kỳ giữa thân tâm với những phức hợp đa dạng, tương liên, tương quan, khăng khít và bất khả tri của các cơ cấu xã hội trong đó ta đang sống. Những gì Thầy Nhất Hạnh giảng dạy đều chĩa mũi dùi vào những cuồng tín và những ảo tưởng của chúng tu Tiếp Hiện, thành lập năm 1966, có mười bốn giới mà giới đầu tiên là “Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để đừng bị vướng mắc vào bất cứ một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động.”Chúng ta phải nhìn cho rõ để đạt được tuệ giác qua cái sợ của chúng ta, đừng bao giờ không công nhận bất cứ một cái gì đang thuộc về ta và cũng không bao giờ nên cố níu giữ lấy những cái mà ta đã quá tin tưởng là thật, mà thật ra là không thật. Tuệ giác này, trong sách Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức, đã được đề cập tới rất rõ ràng, thấu đáo – một tuệ giác đưa tới thương yêu và bất bạo động “Thiền tập được dựa trên tuệ giác bất nhị – giữa thiện và ác, giữa khổ và lạc, vì vậy, phương pháp xử lý khổ đau luôn luôn là nhẹ nhàng, bất bạo động. Khi ta đã chấp nhận được tính cách bất nhị của thực tại, ta sẽ trở thành bất bạo động một cách tự thấy không cần phải đàn áp, xua đuổi cơn giận và nỗi sợ của ta nữa, bởi vì ta thấy cơn giận ấy và nỗi sợ ấy cũng là chính ta, chứ không phải là kẻ thù của ta. Do đó, ta sẽ đối xử với chúng một cách nhẹ nhàng êm dịu. Sẽ không còn có sự xung đột nữa. Chỉ còn lại sự thực tập để chăm sóc và chuyển hóa.” Thầy Nhất Hạnh miêu tả “lục-ba-la-mật” như “sáu kỹ thuật tạo nên hạnh phúc.” Ba-la-mật có nghĩa là “từ bờ bên này đi qua bờ bên kia.” Tôi có cảm tưởng là khi dạy về lục độ, Thầy luôn luôn nhấn mạnh tới nhẫn ba-la-mật và tinh tấn ba-la- mật nhiều hơn. Nhẫn ksanti đối với Thầy là kiên nhẫn và không loại trừ, tinh tấn virya là chuyên cần, siêng năng. Nếu không siêng năng vượt bậc thì làm sao Thầy tạo dựng và nuôi dưỡng được từng ấy tăng thân xuất gia và tại gia ở Tây phương, làm sao Thầy viết được từng ấy cuốn sách, làm sao có thể cứ tiếp tục đi giảng dạy khắp nơi trong suốt mấy mươi năm trời và làm sao chịu đựng nổi bốn mươi năm lưu đày viễn xứ? Thầy mới được phép về lại quê xưa lần đầu cách đây chỉ có hai năm! Hơn thế nữa, nếu không chuyên cần và chịu đựng, làm sao Thầy kiên trì tranh đấu cho hòa bình và đối diện được với khổ đau trên thế giới trong suốt mấy mươi năm với hiểu biết và tình thương mà không hề thối chí như thế? Nhẫn nhục đi đôi với tinh nhục, theo Thầy, là “thực tập để làm cho trái tim ta ngày càng lớn rộng thêm ra.” Cũng như mục sư Martin Luther King Jr. dạy về agape trong Kitô giáo, Thầy dạy “Nhẫn nhục là ôm lấy tất cả trong tình thương của mình mà không loại trừ bất cứ ai. Trong tình thương đích thực, ta không còn kỳ thị nữa, dù người ấy là da đen, da trắng hay da vàng, dù người ấy theo đạo Hồi, theo đạo Bụt, theo đạo Do Thái hay theo chủ nghĩa gì đi nữa, mình cũng chấp nhận tất cả mà không còn kỳ thị. Nhẫn nhục ở đây có nghĩa là không kỳ thị.” Thầy Nhất Hạnh nhìn đạo Bụt như con đường tu tập để trở thành một con người toàn vẹn, bước đi trên Trái đất một cách an lạc, tạo dựng được hòa bình. Cách sống này vượt lên khỏi mọi tôn giáo và mọi ý thức hệ, cho tình người là cao cả hơn hết. Tuy nhiên, Thầy cũng nói rằng các tôn giáo lớn phải có trách nhiệm đưa tín hữu của họ vào con đường nhân bản thấy nhà Riverhead vừa ăn mừng kỷ niệm ngày xuất bản cuốn Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời Living Buddha, Living Christ bằng một ấn bản thứ mười của cuốn sách ấy – một tác phẩm được xem như nền tảng chung của cả Phật giáo lẫn Kitô giáo. Với một bài tựa của học giả Elaine Pagels, cuốn sách này cũng là một viên đá nền tảng khác cho Phật pháp tại Tây phương, bây giờ đây còn thích ứng với thời cuộc hơn cả mười mấy năm về trước, khi nó mới được xuất bản lần hoa của cuốn này, cũng như của bao nhiêu cuốn sách khác của thiền sư Nhất Hạnh, là đối thoại và chia sẻ, cái mà thế giới chúng ta đang thực sự cần đến hơn bao giờ hết, cho tất cả các tôn giáo trên thế giới. Làm thế nào để tự nuôi dưỡng mình và nuôi dưỡng truyền thống tôn giáo của mình?Thầy viết “Khi Phật tử và Kitô hữu tới với nhau, họ nên ngồi xuống ăn với nhau một bữa cơm có chánh niệm. Ăn cơm như thể là cử hành bí tích thánh thể. Thực tập ăn cơm trong chánh niệm như thế, mỗi bữa ăn đều có thể trở nên bữa ăn cuối cùng the Last Supper. Thật ra, ta có thể gọi đó là bữa ăn đầu tiên the First Supper, tại vì sau khi ăn một bữa ăn như thế, tất cả mọi cái đều trở thành mới tinh và tươi mát.”Thông tin về cuốn sáchTên sáchBụt là hình hài, Bụt là tâm thứcTác giảThích Nhất trang 311 trangNhà xuất bảnLao độngKhổ13 x 19 cmCông ty CP Sách Thái Hà trân trọng giới thiệu! Cuộc đời Ngài là Giáo LýCó một khoa học gọi là Phật học, đó là học về cuộc đời của Bụt. Bụt là một nhân vật có thật trong lịch sử. Bụt sinh ra ở thành Kapilavatsu Ca Tì La Vệ, gần biên giới Ấn ộ và Nepal. Ngài thành hôn, có một con, xuất gia, giác ngộ, và chia sẻ giáo pháp của Ngài cho đến năm tám mươi tuổi Ngài tịch. Nhưng cũng có một vị Bụt ở trong mỗi người chúng ta, không tùy thuộc vào thời gian và không gian. ó là ức Bụt Sống, vị Bụt của sự thật sau cùng, vượt trên các ý nghĩ và khái niệm, và lúc nào chúng ta cũng gặp được. Vị Bụt Sống đó không sinh ra ở Kapilavatsu và cũng không tạ thế ở Tô Học là môn học về cuộc đời Chúa Ki Tô. Khi nói Chúa Ki Tô, chúng ta cũng cần biết đang nói về Chúa Giêsu trong lịch sử hay ức Ki Tô Hằng Sống. Chúa Ki Tô trong lịch sử sinh tại Bê Lem, con của một người thợ mộc. Ngài rời quê hương xa, trở thành một đạo sư, và bị đóng đinh trên thập tự vào năm ba mươi ba tuổi. ức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng ế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống. Trong Ki Tô Giáo, bạn phải tin vào sự Phục Sinh, nếu không thì bạn không phải tín đồ. Tôi e rằng điều kiện nầy làm nhiều người e ngại, không chịu nhìn sâu vào cuộc đời Chúa Giêsu. Thật đáng tiếc, vì chúng ta có thể học hỏi cả nơi Chúa Giêsu trong lịch sử lẫn Chúa Giêsu như một cánh cửa tuyệt chúng ta theo dõi và tiếp xúc một cách sâu sắc với cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu, chúng ta có thể thâm nhập vào sự thật của Thượng ế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao dung, là những biểu hiện của cuộc đời Chúa Giêsu. Thượng ế xuất hiện với chúng ta qua Giêsu Ki Tô. Với Thánh Linh và Nước Chúa ở trong Ngài, Giêsu đã tiếp xúc với mọi người sống cùng thời của Ngài. Ngài đã nói chuyện với những cô gái điếm, những người thâu thuế, Ngài có can đảm làm bất cứ việc gì cần thiết để chữa các căn bệnh của thời đại Ngài. Như là đứa con của mẹ Maria và thánh Giuse, Giêsu là Con của Người, Người Nam và Người Nữ. Như một người sống với Thánh Linh, Ngài là Con của Thượng ế. Nói rằng Chúa Giêsu vừa là Con của Người, vừa là Con của Thượng ế, các Phật tử có thể chấp nhận không khó gì. Chúng ta có thể thấy ức Chúa Cha và ức Chúa Con là một, bất nhị, vì nếu không có ức Chúa Cha ở trong Ngài thì không có ức Chúa Con. Tuy nhiên, trong Ki Tô Giáo, Giêsu thường được gọi là Con Một của Thượng ế. Tôi thấy chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài. Tôi nghĩ cuộc đời Chúa Giêsu là bài học căn bản nhất của Ngài, quan trọng hơn cả sự phục sinh và tính vĩnh tỉnh thức là BụtBụt là người giác ngộ, nghĩa là không còn bị ràng buộc vào thế tục. Nhưng khi nhiều người nói rằng họ tin Bụt, họ đang nói về niềm tin vào vị Bụt thần thông, huyền diệu, không phải niềm tin vào giáo lý hay cuộc đời của vị Bụt lịch sử. Họ tin vào sự mầu nhiệm của Bụt, và thấy như vậy là đủ. Nhưng các thí dụ trong cuộc đời thật của Bụt và Chúa Giêsu quan trọng hơn, vì khi các Ngài sống như những con người thật, chúng ta có thể bắt chước, sống theo mẫu đời sống của các chúng ta đọc, “Cửa trời mở rộng và Thánh Linh giáng xuống Ngài như một con chim bồ câu,” chúng ta có thể thấy hình ảnh Chúa Giêsu đã giác ngộ. Ngài đã tiếp xúc được với sự thật của đời sống, nguồn suối của tỉnh thức, của minh triết và trí tuệ ở trong Ngài. ó là điều phân biệt Ngài với người phàm tục. Khi Ngài sinh ra trong một gia đình người thợ mộc, Ngài là Con của Người. Khi Ngài mở rộng trái tim, cánh cửa thiên đường đã mở ra cho Ngài. Thánh Linh đã ngự xuống Ngài như một con chim bồ câu, và Ngài biểu hiện như là Con của Thượng ế – rất thiêng liêng, sâu sắc, và vĩ Thánh Linh không phải chỉ ngự xuống Giêsu không thôi, mà cho tất cả chúng ta. Trong nhãn quan Phật Giáo, ai không phải là con của Thượng ế? Ngồi dưới gốc cây bồ đề, những hạt giống thiêng liêng và huyền diệu ở trong Bụt bừng nở. Ngài là một người, nhưng đồng thời Ngài cũng thị hiện tâm linh nhân loại đến mức cao nhất. Khi chúng ta tiếp xúc được với tâm linh tối thượng trong chúng ta, chúng ta là Bụt. Chúng ta mang ơn Thánh Linh, và chúng ta trở nên rất bao dung, rất cởi mở, sâu xa, và thông cánh cửa mở ra cho các thế hệ sau Kinh Thánh Mathiơ tả Nước Chúa giống như một hạt cải nhỏ xíu. iều đó có nghĩa là hạt giống của Nước Chúa ở sẵn trong chúng ta. Nếu chúng ta biết vun trồng hạt giống đó trong mảnh đất mầu của cuộc sống hằng ngày, nó sẽ lớn lên và thành một cây cao cho chim chóc đến trú ẩn. Chúng ta không cần phải chết đi mới tới được cửa thiên đàng. Thật ra chúng ta cần phải sống đích thực. Việc tu tập là tiếp xúc sâu xa với sự sống để Nước Chúa trở thành sự thật. ây không phải là chuyện sùng tín. ây là chuyện thực tập. Có thể vào Nước Chúa bây giờ và ở đây. Nhiều đoạn trong Phúc Âm cũng có cách nhìn nầy. Chúng ta đọc Kinh Lạy Cha, rằng chúng ta không đi tới Nước Chúa, nhưng Nước Chúa sẽ đến với chúng ta “Nước Ngài sẽ tới …” Giêsu nói, “Ta là cánh cửa vào.” Ngài tự mô tả là cánh cửa của Nước Chúa. Vì ức Chúa Con được tạo nên bằng ức Thánh Linh, Ngài là cánh cửa để chúng ta vào Nước cũng được mô tả như là một cánh cửa, là vị đạo sư chỉ đường cho ta sống trong đời. Phật tử tu học con đường đó một cách sâu xa để giúp ta sống trong chánh niệm, từ bi, và an lạc. Kinh sách nói có 84 ngàn pháp môn, cánh cửa của sự tu học. Nếu bạn may mắn tìm thấy một cánh cửa, và cho rằng cánh cửa của bạn là cánh cửa duy nhất, thì đó không phải là tinh thần đạo Bụt. Thật ra, chúng ta phải mở ra thêm nhiều cánh cửa mới cho các thế hệ tương lai. Chúng ta đừng sợ có quá nhiều cánh cửa – đúng ra, ta nên lo ngại không có thêm những cánh cửa mới. Thật tội nghiệp cho con cháu chúng ta, và con cháu của họ, nếu chúng ta hài lòng với 84 ngàn cánh cửa hiện có. Mỗi người chúng ta, với sự tu tập và tâm từ bi, có thể mở ra những Cánh Cửa Pháp hội đang biến đổi, con người thay đổi, đời sống chính trị và kinh tế ngày nay không còn giống như thời Bụt và Chúa nữa. Bụt trông cậy nơi chúng ta để Giáo Pháp tiếp tục phát triển như một thực thể sống động – không phải một giáo pháp cứng đọng, mà là một Pháp Thân Dharmakaya, một thực thể giáo lý thiêng mẹ sinh ra các vị BụtBụt dạy Pháp thân của Ngài quan trọng hơn nhục thân. Ngài muốn dạy chúng ta phải thực hành Giáo Pháp để đạt tới Niết Bàn ở đây và bây giờ. Giáo Pháp sinh động không phải là những thư viện chứa kinh điển hay các băng thâu những bài giảng hay. Pháp sinh động là sống tỉnh thức trong chánh niệm, biểu hiện trong cuộc sống hằng ngày của Bụt cũng như của quý vị. Khi tôi nhìn thấy quý vị bước đi với chánh niệm, tôi tiếp xúc được với sự an lạc, với sự hiện diện của quý vị một cách sâu xa. Khi quý vị săn sóc các anh chị em của mình, tôi nhìn thấy Giáo Pháp sống động trong quý vị. Nếu có chánh niệm, quý vị có thể tiếp xúc với Pháp thân của mô tả những hạt giống của tỉnh thức trong mỗi chúng ta là “Như Lai Mẫu” tathagatagarbha. Chúng ta đều là “mẹ của Như Lai” vì trong lòng chúng ta đều mang sẵn hạt giống của tỉnh thức. Nếu chúng ta đều săn sóc vị Bụt sơ sinh trong mình bằng sự thực tập tỉnh thức mỗi ngày, một ngày nào đó ấng Giác Ngộ sẽ đến với chúng ta. Các Phật tử nhìn Bụt như một vị thầy và một người anh, không phải là một thần linh. Chúng ta đều là Pháp huynh Pháp đệ của Bụt. Chúng ta cũng nói Trí Tuệ Bát Nhã Prajnaparamita là mẹ của tất cả các vị Bụt. Trong lịch sử, các giáo phái Tin Lành giảm bớt hình ảnh Mẹ trong Thượng ế và đề cao vai trò Cha của Ngài, nhưng trong Giáo hội Công Giáo có sự sùng kính Maria, ức Mẹ Chúa ra Mẹ và Cha là hai phương diện của cùng một thực thể. Hình ảnh người cha hiện rõ hơn trong Trí Tuệ và Hiểu Biết, người Mẹ trong Tình Thương và Từ Bi. Trong đạo Bụt, hiểu biết prajna là căn bản của thương yêu maitri. Nếu không có hiểu biết thì không có tình thương đích thực, và không có tình thương thì không có hiểu biết đích con gái của Thượng ếNgười ta gọi Bụt bằng mười danh hiệu, mỗi danh hiệu biểu lộ một phẩm chất. Danh hiệu thứ nhất, Như Lai Tagatatha, tức là “vị đến với chúng ta trên đường chánh”, “vị đến từ sự thật mầu nhiệm của sự sống và sẽ trở về sự thật mầu nhiệm đó”, hay “vị đến từ cõi như vậy, ở trong cõi như vậy, và quay về cõi như vậy”. Như là danh từ Phật giáo nói đến Chân Như, bản chất của sự vật, hay sự thật tối hậu. ó là bản thể hay nền tảng của sự hiện hữu, ví như nước là bản thể của sự sống. Cũng như Bụt, chúng ta cũng tới từ Chân Như, ở tại Chân Như, và sẽ quay về Chân Như. Chúng ta từ cõi Không mà đến và sẽ trở về cõi một bài kinh, Phật nói rằng hình sắc chúng ta thấy là do các nhân duyên tạo thành, khi không đủ nhân duyên thì chúng ta không thấy. Khi có đủ nhân duyên thì chúng ta nhận ra một hiện tượng, chúng ta thấy hiện tượng là có thật. Nhưng khi một trong các nhân duyên vắng mặt, chúng ta không nhận ra hiện tượng đó nữa. Ta không thấy nên nói là nó không hiện hữu. Nhưng điều đó không đúng. Vào mỗi tháng Tư ở Làng Hồng, chúng ta không nhìn thấy hoa Hướng Dương nở, chúng ta có thể nói hoa Hướng Dương không hiện hữu. Nhưng các nông dân ở ngôi làng tại miền Nam nước Pháp này đã gieo hàng ngàn hạt giống xuống đất. Khi nhìn ngọn đồi trơ trọi, họ có thể thấy các hoa Hướng Dương rồi. Hoa Hướng Dương đã có mặt ở đó. Chúng chỉ còn thiếu các nhân duyên của mặt trời, sức nóng, mưa, và thời gian. Không phải vì ta không thấy mà hoa Hướng Dương không hiện theo cách đó, chúng ta nói ức Như Lai không từ đâu tới mà cũng không đi về đâu cả. Ngài tới từ cõi Chân Như và trở về Chân Như, không phụ thuộc vào thời gian và không gian. Nếu quý vị đi qua thửa ruộng bên Làng Hồng vào tháng Tư, và xin cánh đồng cho quý vị thấy Chân Như, thấy Nước Chúa, các thửa ruộng bỗng nhiên sẽ phủ đầy hoa Hướng Dương vàng chói rực rỡ. Khi Thánh Phan Xi Cô St Francis nhìn quán chiếu sâu xa một cây hạnh nhân vào giữa mùa đông và bảo cây hãy nói cho ngài nghe về Thượng ế, cây bỗng bừng nở đầy hiệu thứ hai của Bụt là A La Hán, vị xứng đáng được tôn kính. Danh hiệu thứ ba là Thiện Thệ, vị hoàn toàn tỉnh thức. Thứ tư là Minh Hạnh Túc, vị có trí tuệ và đức hạnh đầy đủ. Thứ năm là Vô Thượng Sĩ, vị dẫn đường không ai hơn. Thứ sáu là Thế Gian Giải, người biết rõ thế giới nầy. Thứ bảy là iều Ngự Trượng Phu, người đi trên con đường tự tại. Thứ tám là Thiên Nhân Sư, thầy của thần linh và người. Danh hiệu thứ chín của Ngài là Bụt Buddha, Phật à, bậc giác ngộ. Danh hiệu thứ mười là ức Thế Tôn, bậc đầy phúc khi chúng ta quy y, quay về nương tựa Bụt, chúng ta tìm nương tựa vào một vị có đủ mười đức tính trên, đó cũng là hạt nhân có sẵn trong mỗi người. Thái tử Tất ạt a Siddharta không phải là vị Bụt duy nhất. Mọi vật trong thế giới cây cỏ, muông thú và khoáng chất đều là các vị Bụt tương lai. Tất cả chúng ta đều chứa sẵn mười đức tính của Bụt trong thâm căn của mình. Nếu chúng ta thể hiện được mười đức tính đó thì sẽ được tôn thấy trong Phép Rửa Tội là sự công nhận của mỗi người, khi mở lòng ra đón Thánh Linh, đều có khả năng thể hiện mười đức tính trên, đó cũng là những đức tính để trở thành các người con của Chúa. Trong đạo Bụt, chúng ta không nói đến Tội Tổ Tông, nhưng nói đến các Chủng Tử Bất Thiện, là những hạt giống có sẵn trong mỗi người – hạt giống của tham lam, hận thù, giận dữ, ngu si, cố chấp, – và chúng ta nói đến các hạt giống trên có thể được chuyển hóa khi chúng ta tiếp xúc với các đức tính của Bụt. Các đức tính đó cũng có sẵn hạt giống trong chúng ta. Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa khi một người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng ế và con của Người. Chúng ta cũng là con của Thượng ế và của song thân chúng ta. Nghĩa là chúng ta thuộc về cùng một thực tại như Giêsu. iều này có thể coi như là tà thuyết đối với một số người Ki Tô Giáo. Nhưng tôi tin những nhà thần học đã nói là không cần phải nghĩ như vậy. Giêsu không phải chỉ là Chúa của chúng ta. Ngài còn là Cha, là Thầy, là Anh, và là Chính chúng ta. Nơi duy nhất chúng ta có thể tiếp xúc với Giêsu và Nước Chúa là ở trong nột tâm ta tiếp tục ra đờiKhi chúng ta làm lễ Chúa Giáng Sinh hay lễ Phật ản, chúng ta mừng sự ra đời của những hài nhi đặc biệt. Sự giáng sinh của Chúa và đản sinh của Bụt là các biến cố quan trọng trong lịch sử loài người. Mấy ngày sau khi Bụt ra đời, nhiều người ở Kapilavatsu đến kính thăm, trong đó có một đạo sĩ già tên là Asita. Sau khi nhìn ngắm Bụt sơ sinh, Asita bật khóc. Vua cha kinh ngạc hỏi “Thưa đạo sĩ, tại sao ông lại khóc? Con tôi sẽ có số phận không may chăng?” ạo sĩ trả lời “Thưa ức Vua, không phải vậy. Việc ra đời của Thái tử Tất ạt a thật là mầu nhiệm. Con trai hoàng thượng sẽ thành một vị thầy quan trọng của thế giới. Nhưng tôi bây giờ đã già quá rồi, chắc không sống được đến ngày đó nữa. ó là lý do tại sao tôi khóc.”Trong Kinh Thánh cũng có một câu chuyện tương tự. Tám ngày sau khi sinh ra, Chúa Hài ồng được đưa đến đền thờ để làm lễ cắt bì. Khi một người tên Simeon nhìn thấy Chúa, Ông ta thấy là Ngài sẽ thay đổi cuộc sống nhân loại một cách lớn lao.“Khi đến ngày làm lễ thánh tẩy theo luật của Mai Sen Moses, người ta bế Ngài đến Giê Ru Sa Lem để trình Ngài lên Thượng ế… và người ta theo luật của Thượng ế làm lễ hiến sinh hai bồ câu nhỏ. Lúc đó có một người ở Giê Ru Sa Lem tên là Simeon. Người đó là một người công chính và sùng tín, đi tìm đường cứu rỗi dân Israel, đưa Thánh Linh ở cùng người đó. ức Thánh Linh đã báo cho Simeon biết rằng ông ta sẽ được nhìn thấy Messiah ấng Cứu Thế trước khi chết. Theo hướng dẫn của Thánh Linh, Simeon đi tới đền thờ, và khi cha mẹ Chúa Hài ồng bế Chúa tới trao cho ông theo luật thánh, Simeon bế Chúa trong hai tay, và ca ngợi Thiên Chúa rằng Lạy Chúa, nay Ngài có thể cho tôi tớ Ngài được yên nghỉ theo lời Ngài đã phán, vì nay tôi đã thấy được sự cứu rỗi mà Ngài đã chuẩn bị trước sự chứng kiến của mọi người, ánh sáng mạc khải cho dân ngoại và vinh quang cho dân Chúa, dân tộc Israel.’ Cha và mẹ của hài nhi kinh ngạc khi nghe Simeon nói thế.”Mỗi khi tôi đọc chuyệm Asita và Simeon, tôi lại ước chi khi mỗi người chúng ta sinh ra lại có một vị hiền giả đến thăm viếng. Mỗi trẻ sơ sinh ra đời đều quan trọng, không kém gì việc đản sinh của Bụt. Chúng ta cũng là Bụt, một vị Bụt tương lai, và chúng ta tiếp tục ra đời trong mỗi giây phút. Chúng ta cũng đều là Con của Thiên Chúa và là con của cha mẹ ta. Chúng ta phải chăm sóc mỗi đứa trẻ mới ra xúc với tổ tiênTôi không biết tôi là chính tôi hay tôi cũng là anh ruột tôi. Trước khi tôi ra đời, một em bé trai khác đã định sinh ra, nhưng mẹ tôi bị xẩy thai. Nếu người con trai đó còn sống, chắc tôi đã có một người anh. Hay tôi đã là anh tôi. Từ nhỏ tôi vẫn nghĩ ngợi về điều bậc cha mẹ sắp có con nên cẩn trọng vì họ đang mang một hài nhi có thể trở thành một ức Bụt hay một Chúa Giêsu. Họ phải tỉnh táo biết những thứ gì họ đang ăn, uống, điều họ nghĩ, việc họ làm. Cách thức họ chăm sóc thân thể và cảm thọ của họ ảnh hưởng đến sự an lạc của đứa trẻ trong bụng mẹ. Cha mẹ chúng ta cho chúng ta được ra đời và hiện giờ vẫn tiếp tục ban sự sống cho chúng ta. Mỗi khi gặp khó khăn, tôi đều khấn cha mẹ tôi và lúc nào tôi cũng được phù tổ tiên về tâm linh của chúng ta cũng ban cho chúng ta sự sống và cũng vẫn còn tiếp tục mãi. Ở nước tôi, chúng tôi thường nói một vị thầy đích thật có thể cho môn đệ sự sống. Nếu quý vị có đủ bản lãnh, quý vị sẽ tạo nên sự sống của những đứa con tinh thần, và qua sự tu tập và cuộc sống, quý vị sẽ tiếp tục ban sự sống cho nhiều người, cả sau khi đã qua đời. Chúng ta có thể nói các người con từ miệng Bụt ra đời vì Bụt đã ban cho họ các lời dạy, tức là Pháp. Có nhiều cách để mang Pháp tới cho cuộc sống tinh thần của một đứa trẻ sắp ra đời. Cách thông thường nhất là dùng lời nói. Mỗi ngày tôi vẫn tu tập để tiếp xúc với các tổ tiên huyết thống và các tổ tiên tâm linh của tôi. Mỗi khi tôi thấy mình yếu đuối, tôi lại kêu gọi họ phù trợ, và bao giờ các ngài cũng tới và con đường dứt khổNgay từ khi còn nhỏ, Tất ạt a và Guêsu đều nhận thấy đời nhiều nỗi khổ. Bụt đã thấy rất sớm nỗi khổ của mọi loài. Chúa Giêsu cũng phải nhìn thấy như vậy, vì các Ngài đều tìm đường giúp nhân loại dứt khổ đau. Chúng ta cũng phải tìm một lối sống giúp cho đời vơi khổ. Sự thật về khổ lúc nào cũng có mặt, ở chung quanh và ở trong ta, và chúng ta phải tìm đường giảm bớt nỗi khổ, biến khổ đau thành an lạc, hòa tăng ni tu tập theo truyền thống của họ, đã tụng kinh, ngồi thiền, đi thiền hành, thọ trai trong yên lặng, và tu tập nhiều phương pháp khác để diệt khổ. Sống cuộc đời của một vị tăng hay ni, có thể ngồi im lặng quán chiếu về sự khổ và đường diệt khổ, là một điều quý báu hiếm có. Quý vị có thể ngồi quán chiếu sâu xa về thân và tâm của mình, như gà mẹ đang ấp trứng. Một ngày nào đó, trứng sẽ nở ra một gà con. Nếu quý vị không tôn quý những giờ thực tập, thì dù là tăng ni, quý vị cũng không cống hiến gì được cuộc hai mươi chín tuổi Bụt xuất gia, tuổi tương đối còn trẻ, đến năm ba mươi lăm Ngài thành đạo. Chúc Giêsu cũng sống nhiều ngày một mình trong sa mạc. Chúng ta đều cần những giờ phút suy ngẫm và làm mới lại mình. Những người không phải tăng ni sẽ thấy khó kiếm được thì giờ thiền quán hay cầu nguyện, nhưng đó là một việc quan trọng phải làm. Trong những khóa tu, chúng ta tập sống ý thức về mỗi việc mình làm, rồi tiếp tục áp dụng điều đó trong cuộc sống hằng ngày. Thực hành như thế, chúng ta có thể quán chiếu sâu xa về bản chất của khổ và tìm ra đường thoát khổ. ó là bài giảng thứ nhất của Bụt tại Vườn Nai ở Sanarth “Hãy quán chiếu sâu xa bản chất của khổ để tìm nguyên nhân gây ra khổ và con đường diệt khổ.” Người đi tu hay người tại gia đều có thể thực tập điều là con đườngạo Bụt trong truyền thống Theravada Nam Tông nhấn mạnh vào các bài giảng của vị Bụt lịch sử, vị Bụt đã sống và đã qua đời. Sau nầy ý niệm về Bụt sinh động phát triển trong truyền thống Mahayana Bắc Tông. Khi Bụt sắp nhập diệt, nhiều vị đệ tử buồn rầu vì sắp phải xa Ngài. Ngài đã trấn an họ rằng “Nhục thân của ta sẽ không còn nữa, nhưng Pháp thân của ta vẫn luôn luôn ở bên các con. Hãy quy y Pháp để làm hòn đảo cho các con nương tựa.” Lời Bụt dạy rất rõ ràng. Giáo Pháp của Ngài là hải đảo cho chúng ta nương tựa, là bó đuốc soi đường cho chúng ta. Khi Giáo Pháp còn tồn tại, thì chúng ta không cần phải lo buồn. Một vị sa môn lúc đó đang bệnh, ngỏ ý tiếc không thể đến gặp Bụt, Bụt nhắn với thầy đó rằng “Nhục thân của Ta không quan trọng. Nếu thầy có Pháp thân với thầy, nếu thầy tin Pháp, thực tập Giáo Pháp, thì ta luôn luôn ở bên thầy.” Chúa Giêsu cũng từng nói “Khi có hai, hay ba người họp nhau trong tên ta, ta ở đó cùng họ.”Ta luôn luôn ở đó cùng ngườiSau khi Bụt nhập diệt, người ta yêu và sùng kính Ngài quá nên ý niệm Pháp thân vốn bắt đầu là các giáo lý đã biến thành một vị Bụt huy hoàng, bất diệt, lúc nào cũng giảng Giáo Pháp. Trong truyền thống Bắc Tông, Bụt lúc nào cũng còn sống, vẫn tiếp tục giảng Giáo Pháp. Nếu quý vị chú ý lắng nghe, quý vị có thể nghe tiếng nói của Pháp từ một hòn sỏi, một lá cây, một đám mây bay. ức Bụt thường tồn đã trở thành Bụt sống, vị Bụt của niềm tin. Cũng giống như Chúa Ki Tô của đức tin, Chúa Ki Tô sống. Nhà thần học Paul Tillich mô tả Thiên Chúa như là nền tảng của hiện hữu. Người ta cũng có khi mô tả Bụt như ạo là thấy taGặp một vị minh sư cũng có giá trị như học ngài hàng thế kỷ, vì trong ngài chúng ta thấy tấm gương sống của sự giác ngộ. Làm sao chúng ta được gặp Bụt hay Chúa? iều đó tùy thuộc chính ta. Nhiều người nhìn vào mắt Bụt hay Chúa mà không thấy. Có một thầy kia hối hả đi tìm gặp Bụt, vội quá đến nỗi dọc đường nhìn mà không thấy một người đàn bà đang đau khổ cần giúp đỡ. Khi vị đó tới tu viện gặp Bụt, ông ta cũng không nhìn thấy Bụt. Quý vị thấy Bụt hay không là do quý vị đang sống trong trạng thái là trí tuệ, là từ biBụt tỏa ra hào quang cũng như các nhân vật siêu phàm khác. Khi chúng ta gặp các nhân vật đó chúng ta cảm thấy bình yên, tình thương, thấy sức mạnh nơi họ và trong chúng ta. Có câu ngạn ngữ Trung Hoa rằng “Thánh hiền ở đâu thì nước suối ở đó trong hơn, cây cối ở đó cũng xanh hơn.” Câu đó mô tả không khí bao quanh bậc thánh nhân. Khi quý vị đến bên một hiền giả, quý vị cảm thấy bình an và sáng láng. Khi quý vị đến gần Chúa Giêsu và nhìn thẳng vào mắt Ngài – dù quý vị có thấy hay không – quý vị có nhiều hy vọng được cứu rỗi hơn là chỉ đọc lời nói của Ngài. Nhưng khi quý vị không thể đích thân gặp Chúa, thì còn những bài học của Chúa, đặc biệt là những bài học về cuộc đời của khỏi những khái niệmMỗi khi tôi đọc kinh điển, dù là kinh đạo Chúa hay đạo Bụt, tôi luôn luôn ghi nhớ rằng những điều các Ngài nói là nói cho một người hay một thính chúng nào đó, trong một hoàn cảnh nào đó. Tôi cố suy ngẫm sâu xa về khung cảnh của lời dạy để hiểu cho đúng hơn. iều các Ngài nói có khi không quan trọng bằng cách nói. Khi chúng ta biết như vậy, chúng ta gần Chúa và Bụt hơn. Còn nếu như chúng ta phân tích kỹ lưỡng lời dạy của các Ngài mà không hiểu tương quan giữa người nói và người nghe thì có thể chúng ta đã hiểu lầm. Nhiều nhà thần học cũng có khi mắc lỗi đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy sự can đảm vô cùng của Chúa Giêsu khi Ngài cố thay đổi xã hội chung quanh. Khi đọc kinh Phật, chúng ta cũng thấy Bụt có một nhân cách rất mạnh. Xã hội Ấn ộ thời Bụt không nhiều bạo lực bằng xã hội trong đó Chúa Giêsu sinh ra, cho nên chúng ta có cảm tưởng các phản ứng của Bụt không quyết liệt bằng, nhưng điều đó là vì trong xã hội của Bụt khả dĩ có thể tìm ra phương cách khác. Hãy xem phản ứng của Bụt đối với sự sa đọa của các tu sĩ theo phái Vệ à chẳng hạn, cũng rất quyết liệt. Thí dụ khái niệm về Tự Ngã Atman, một trọng điểm của giáo lý Vệ à, là một nguyên nhân của tình trạng bất công xã hội thời đó – như hệ thống đẳng cấp, cách đối xử bất nhẫn với những người vô đẳng cấp, và sự độc quyền về giáo điều của những người không chắc có giá trị tinh thần nhưng lại hưởng những cuộc sống sung túc nhất. Phản ứng lại, Bụt đã nhấn mạnh đến giáo lý Vô Ngã. Ngài nói “Mọi sự vật không có tự tánh riêng biệt, độc lập. Nhìn vào tự tánh của một bông hoa, quý vị thấy đó là sự trống rỗng.” ến khi các đồ đệ bắt đầu sùng bái giáo lý Vô Ngã, Ngài lại nói “Thà rằng tin ở tự ngã của một bông hoa còn hơn là vướng mắc vào tính vô ngã của bông hoa.”Bụt không trình bày một học thuyết có tính cách tuyệt đối. Ngài dạy về vô ngã để đối trị với vấn đề của thời đại đó. ó là một đề tài thiền quán. Nhưng nhiều Phật tử về sau bị vướng mắc vào ý niệm vô ngã. Họ lầm phương tiện với cứu cánh, lầm cái bè qua sông với bờ sông bên kia, lầm ngón tay chỉ mặt trăng với mặt trăng. Có điều quan trọng hơn cả thuyết vô ngã. ó là sự giải thoát khỏi khái niệm về Ngã và về Vô Ngã. Một người theo đạo Bụt mà để bị vướng mắc vào một lý thuyết, dù là lý thuyết Phật giáo, là làm ngược lời Bụt dạy. Lời nói và khái niệm không quan trọng. iều quan trọng là sự khai ngộ của chính chúng ta về bản chất của sự vật và cách thức chúngta đối trị với sự thật đó. Nếu Bụt sinh ra ở xã hội mà chúa Giêsu đã sinh ra, tôi nghĩ chắc Ngài cũng bị đóng đinh trên thập ạo, lên đườngKhi Chúa Giêsu nói “Ta là con đường” Ngài muốn bảo nếu muốn gần Thiên Chúa chúng ta phải tu tập con đường của Ngài. Trong Tân Ước, ta thấy các người theo Thiên Chúa Giáo đầu tiên, như tả trong sách Tông ồ Mục Vụ, thường nói đến đức tin của họ như là “Con ường – ạo.” Tôi nghe câu nói “Ta là Con ường” hay hơn câu “Ta biết Con ường.” ây không phải là một con đường trải nhựa. Nhưng chúng ta phải phân biệt chữ “Ta” trong lời Chúa và chữ “Ta” mà người nghe vẫn nghĩ. Chúa nói “Ta” là nói về ời Sống, đời sống của Ngài, đó là ạo. Nếu quý vị không nhìn vào đời sống của Ngài, quý vị không thấy ạo của Ngài. Nếu quý vị chỉ ca ngợi một danh hiệu, dù là danh hiệu Chúa, đó chưa phải là tu học theo cuộc đời của Chúa. Nếu muốn sáng danh Chúa Giêsu chúng ta phải tập sống sâu xa, thương yêu và hành động bác ái. ạo, Con ường, chính là Chúa chứ không phải là một vài ý Chúa nói ra. Giáo lý đích thực có tính động. ó không phải là lời nói mà thôi nhưng là đời sống thật. Nhiều người không có đạo lẫn đời sống mà vẫn bắt ép mọi người theo cái mà họ tưởng là đạo. Nhưng đó chỉ là lời nói mà không dính dấp gì đến đời sống thật hay con đường chúng ta hiểu và thực hành sâu xa cuộc đời và giáo pháp của Bụt, cuộc đời và tín lý của Chúa Giêsu, chúng ta bước được vào trong cánh cửa của căn nhà Bụt sống và Chúa sống, và đời sống hằng cửu sẽ đến với ta là mình ChúaKhi một vị mục sư nói tôi là người không biết ơn vì không tạ ơn Chúa khi ăn cơm, ông đang nói một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ người theo đạo Bụt. Ông nghĩ tình thương yêu chỉ có thể biểu tượng vào một người. Vì vậy, sự Phục Sinh là một tín lý rất quan trọng trong Ki Tô Giáo. Nếu Giêsu chết đi rồi không phục sinh, ai sẽ mang tình yêu thương vĩnh cữu của Ngài tới cho chúng ta? Nhưng Thượng ế có cần phải biểu hiện thành một người không? Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo luôn luôn dùng hình ảnh của một đạo Bụt, chúng ta cũng hay diễn tả các điều thệ nguyện của mình bằng hình ảnh của một người, như sự tỉnh thức Bụt Thích Ca, trí tuệ Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, và tình yêu Bụt Di Lặc, nhưng ngay cả khi không có Thích Ca Mâu Ni, Văn Thù Sư Lợi, Di Lặc, chúng ta vẫn tiếp xúc được với tỉnh thức, trí tuệ và yêu thương. ệ tử Bụt là sự tiếp nối của Bụt. Chúng ta có thể biểu hiện tỉnh thức, trí tuệ và thương yêu qua các nhân vật thời đại của mình, ngay cả qua chính mình. Chúng ta không cần tin Bụt hay Bồ tát sẽ sống lại bằng sự thực hành tỉnh thức, trí tuệ và thương yêu trong chúng Ki Tô sống là ức Ki Tô của Tình Yêu, mỗi lúc đều tạo dựng nên tình yêu. Khi giáo hội biểu hiện sự hiểu biết, bao dung, và từ bi, Chúa Giêsu đang ở đó. Những tín đồ Thiên Chúa Giáo cần giúp thể hiện Chúa Giêsu trong đời sống của họ, cho những người chung quanh thấy rằng ta có thể đạt tới tình thương, sự hiểu biết và bao dung. iều đó không thể làm đầy đủ qua sách vở và bài giảng. Phải thể hiện trong đời sống. Trong đạo Bụt cũng vậy, đức Bụt sống Ngài dạy chúng ta từ bi chỉ có thể thể hiện bằng cách chúng ta công phu hành trì của nhiều thế hệ người theo đạo Bụt và đạo Chúa, sức mạnh từ Bụt và từ Chúa đã được truyền tới đời chúng ta. Nhờ thế chúng ta có thể tiếp xúc với Bụt sống và Chúa sống. Chúng ta biết ta là biến thân của thân Bụt và một phần của thân huyền nhiệm của Chúa. Chúng ta có cơ hội tuyệt vời làm cho Bụt và Chúa tiếp tục sống mãi. Nhờ thân thể và đời sống của chúng ta mà ta có thể tu tập. Nếu quý vị ghét thân thể của quý vị, nghĩ rằng đó là nguồn gốc của buồn phiền, nó chỉ chứa đựng các hạt giống của giận dữ, thù hận và tham lam, quý vị không hiểu rằng thân thể của quý vị cũng là thân Bụt, thân thể quý vị cũng là một phần thân vui hưởng sự sốngThở và biết rằng mình sống thật là điều tuyệt vời. Vì ta còn sống, nên ta còn bao nhiêu chuyện có thể làm. Tăng thân, cộng đồng của những người tu tập có thể tiếp tục. Giáo hội có thể tiếp tục. Xin đừng phí một giây phút nào. Mỗi giây phút đều là dịp để thở sự sống vào Bụt, Pháp, và Tăng. Mỗi giây phút đều cho ta cơ hội để thể hiện Cha, Con, và Thánh Thần.“Có một người sinh ra trên trái đất để mang lại bình an hạnh phúc cho muôn loài. Vị đó là ai vậy?” kinh Anguttara Nikaya hỏi câu đó. ối với người Phật tử, vị đó là Bụt. ối với tín hữu Thiên Chúa Giáo, vị đó là Chúa Giêsu. Bằng chính đời sống hằng ngày của quý vị, quý vị có thể giúp các Ngài tiếp tục sống. Quý vị chỉ cần đi trong tỉnh thức, bước từng bước an hòa và hạnh phúc trên hành tinh của chúng ta. Hãy thở thật sâu và vui hưởng hơi thở của quý vị. Hãy ý thức về bầu trời xanh và tiếng chim hót ngọt ngào. Hãy vui hưởng sự sống, quý vị sẽ giúp ức Chúa Ki Tô Sống và ức Bụt Sống tiếp tục lâu dài, mãi Nhất Hạnh 1995___________________Chân Văn dịch từ Chương Bốn trong quyển “Living Buddha, Living Christ”, của Thích Nhất Hạnh, Riverheads Book xuất bản, 1995. Quyển sách gồm nhiều bài giảng bằng Anh ngữ của Thầy, được ghi âm, chép lại và nhuận sắc. ây là một quyển sách đã bán được rất nhiều trong loại sách về tôn giáo và tâm linh ở California, Hoa Kỳ. Theo lối quen dùng trong các sách Việt ngữ của Thầy, từ “Buddha” được dịch là “Bụt”, một từ trong tiếng Việt cổ dùng để phiên âm “Buddha” khi đạo Phật được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Về sau, từ khi người Việt dùng kinh sách chữ Hán, từ “Phật” hay “Phật à” tiếng Hán Việt được dùng thay từ “Bụt”. Bài dịch nầy đã được đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, California, Hoa Kỳ, tháng 11-1995.

bụt ngàn đời chúa ngàn đời